Cùng với sự phục hồi của thị trường Thế giới, trong quý I/2024, các đơn hàng xuất khẩu gia tăng, làm cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa có sự tăng trưởng mạnh. Theo Báo cáo 55/BC - TCTK ngày 29/03/2024 của Tổng cục Thống kê, Bộ kế hoạch và Đầu tư về tình hình kinh tế - xã hội quý I/2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trong tháng 3 ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung quý I/2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 93,06 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 84,98 tỷ USD tăng lần lượt là 17% và 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 8,08 tỷ USD.
Về xuất khẩu
Có thể thấy, trong quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa có sự tăng trưởng đáng kể với con số 93,06 tỷ USD với khu vực kinh tế trong nước đạt 25,21 tỷ USD (tăng 26,2%) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 67,85 tỷ USD (tăng 13,9%). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 27,1% kim ngạch xuất khẩu và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 72,9%. Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước ở mức gần gấp đôi so với mức tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô).
Có tổng cộng 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu trong quý I/2024. Số lượng này nhiều hơn 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, có 4 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD, chiếm 52,7%.
Xuất khẩu tăng trưởng mạnh và đồng đều ở tất cả các nhóm hàng. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản có kim ngạch xuất khẩu tăng 26,1%, đạt 9,9 tỷ USD, chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất nhập cả nước. Các mặt hàng như: cà phê, gạo, chè, rau quả, sắn và sản phẩm của sắn, hạt điều, gỗ và sản phẩm của gỗ là những sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2023, đạt 82,02 tỷ USD, và chiếm 88,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến đã có mức tăng trưởng xuất khẩu cao như chất dẻo tăng 131,9%; sắt thép tăng 32,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 30,3%; hóa chất tăng 41,9%; chất dẻo nguyên liệu tăng 38,9%; hóa chất tăng 25,2%; dầu thô tăng 24,5%.
Quý I/2024 cũng chứng kiến sự tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản với mức tăng 10,8%, đạt 1,18 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2023.
Kim ngạch xuất khẩu trong những tháng đầu năm tới các thị trường, đối tác thương mại lớn đều có sự phục hồi tốt và có mức tăng trưởng cao. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong quý I là Hoa Kỳ với kim ngạch đạt 26,2 tỷ USD (chiếm 28,2% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Sau Hoa Kỳ là Trung Quốc với mức tăng trưởng 5,2%, ước đạt 12,7 tỷ USD. Thị trường EU đứng thứ 3 với mức tăng 16,4%, đạt 12,1 tỷ USD. ASEAN đạt 8,9 tỷ USD, tăng 9,5%. Xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 6,6 tỷ USD, tăng 12,9% và Nhật Bản ước đạt 5,7%, tăng 6,4%.
Về nhập khẩu
Trong quý I/2024, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước và đạt mức 84,98 tỷ USD. Khu vực kinh tế trong nước tăng 14,4%, đạt 29,7 tỷ USD và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,6%, đạt 55,28 tỷ USD.
Có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong đó, có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD là điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,9 tỷ USD, tăng 23,6%, chiếm 28,2% tổng kim ngạch nhập khẩu; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 10,3 tỷ USD, tăng 12,1%, chiếm 12,1%.
Về cơ cấu của các nhóm hàng nhập khẩu trong quý I/2024, đáng chú ý là nhóm hàng tư liệu sản xuất tăng lên nhiều hơn nhiều so với nhóm hàng vật phẩm tiêu dùn.g. Điều này cho thấy các công ty tập trung vào phục hồi sản xuất hơn là tiêu dùng. Kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 79,9 tỷ USD, chiếm 94%, trong đó máy móc và dụng cụ phụ tùng chiếm 46,3%.
Kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu và vật liệu chiếm chiếm 47,7% tổng số. Nhiều mặt hàng nhập khẩu tăng cao như: Nguyên phụ liệu thuốc lá tăng 211,8%; phân bón tăng 54,4%; than đá tăng 36,9%; sắt thép tăng 31,9%; bông tăng 27,4%; dây điện và cáp điện tăng 26%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 23,6%; điện thoại và linh kiện tăng 23,3%; hàng điện gia dụng và linh kiện tăng 22,7%; dầu thô tăng 21,3%.
Nhóm hàng tiêu dùng đạt tổng giá trị ước tính là 5,08 tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 6% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong số này, một trong những mặt hàng nhập khẩu có tỷ trọng lớn nhất là ô tô nguyên chiếc, đạt 632 triệu USD, giảm 31,7% so với cùng kỳ năm trước (tương đương 31,5 nghìn chiếc, giảm 25,1% về lượng).
Trong quý I/2024, các thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam đều có sự tăng trưởng. Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với giá trị ước đạt 29,4 tỷ USD, chiếm 34,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là Hàn Quốc với ước đạt 12,8 tỷ USD, tăng 4,3%; thị trường ASEAN với ước đạt 11,1 tỷ USD, tăng 9,8%; Nhật Bản với ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 6,8%; Liên minh châu Âu (EU) với ước đạt 3,9 tỷ USD, tăng 17,3%; và cuối cùng là Hoa Kỳ với ước đạt 3,5 tỷ USD, tăng 14,8%.
Đánh giá
Tuy vậy, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2024, đặc biệt là việc xuất khẩu sang các thị trường chính như châu Âu, châu Mỹ, sẽ đối mặt với cả những cơ hội và thách thức.
Các lợi thế đến từ việc thị trường các hiệp định thương mại tự do (FTA) tiếp tục ảnh hưởng tích cực, giữ vững vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Đồng thời, nhu cầu của thị trường thế giới nói chung và các khu vực thị trường chính như châu Âu, châu Mỹ đã bắt đầu phục hồi từ cuối năm 2023 do lạm phát giảm dần và có thể đạt được mức mục tiêu của các Ngân hàng Trung ương cho năm 2024 (ECB và FED – 2%). Hơn nữa, việc các quốc gia công nghiệp phát triển tiếp tục thúc đẩy chiến lược đa dạng hóa nguồn cung, chuỗi cung ứng và đầu tư sẽ giúp Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất và xuất khẩu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu…
Tuy nhiên, có những thách thức, đặc biệt là khi nền kinh tế toàn cầu đang chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều rủi ro và khó khăn không thể dự đoán trước. Dự báo cho tăng trưởng kinh tế thế giới và các nước khu vực châu Âu - châu Mỹ trong năm 2024 thấp hơn so với năm 2023. Các xung đột chính trị vẫn tiếp tục kéo dài và tình hình bất ổn có thể lan rộng sang các khu vực khác. Sự phản đối toàn cầu đang trở nên mạnh mẽ hơn. Chính sách bảo hộ của các quốc gia cũng đang gia tăng. Ngoài ra, các quốc gia phát triển đang quan tâm đến các vấn đề phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu và an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng, điều này đã thúc đẩy việc xây dựng các tiêu chuẩn và quy định mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu, lao động và môi trường, tất cả đều có ảnh hưởng nghiêm ngặt đối với các sản phẩm nhập khẩu. Việc các quốc gia đa dạng hóa nguồn cung bên ngoài Trung Quốc và tập trung vào một số đối tác gần gũi với thị trường cũng như các đối tác tương đương với Việt Nam như Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh... sẽ tạo ra một sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên các thị trường xuất khẩu của Việt Nam…
Mặc dù có những kết quả tích cực trong quý I/2024, nhưng cần tiếp tục quan sát chặt chẽ tình hình để có biện pháp ứng phó kịp thời, vì vẫn còn những khó khăn, thách thức tiềm ẩn. Điều này bao gồm việc lãi suất vẫn ở mức cao, lãi suất cho vay chưa giảm tương xứng với lãi suất huy động; các thị trường xuất khẩu đang phục hồi nhưng chưa ổn định. Đặc biệt, cần theo dõi cẩn thận biến động của thị trường và chính sách của các đối tác để đề xuất các giải pháp phù hợp, phát triển cả thị trường xuất khẩu truyền thống và thị trường mới. Đồng thời, cần tiếp tục cung cấp thông tin kịp thời cho các Hiệp hội ngành hàng về diễn biến của thị trường xuất khẩu, giúp doanh nghiệp điều chỉnh kế hoạch sản xuất một cách linh hoạt và tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường khác nhau.
Hệ thống Thương vụ Việt Nam tại các khu vực thị trường được chỉ đạo để liên tục cập nhật thông tin về tình hình thị trường quốc tế, bao gồm các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, và đề xuất các biện pháp phù hợp cho các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Hiện tại, ngoài 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện có, còn có 3 FTA Việt Nam đang trong quá trình đàm phán. Đó là FTA giữa Việt Nam và Khối EFTA (bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein); tham gia vào quá trình đàm phán FTA giữa ASEAN và Canada; FTA giữa Việt Nam và UAE đang trong quá trình nỗ lực để hoàn thành đàm phán sớm. Vì vậy, cần tận dụng hiệu quả các Hiệp định Thương mại Tự do đã ký kết, đẩy nhanh quá trình đàm phán và ký kết các FTA mới, tạo ra liên kết kinh tế mới để đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và thúc đẩy xuất khẩu.